Danh sách các Giai thoại nổi tiếng nhất về đền thờ Kiếp Bạc (Chí Linh – Hải Dương
Đền thờ Kiếp Bạc ( thuộc vùng xã Vạn Kiếp, thị xã Chí Linh, Tỉnh Hải Dương) là một trong những nơi thờ Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn nổi tiếng nhất Việt Nam. Đây không chỉ biết đến là doanh trại, nơi đóng quân gắn liền với tên tuổi vị tướng tài ba của dân tộc, mà nó còn hấp dẫn, thu hút khách du lịch gần xa vì những giai thoại, câu chuyện gắn liền với ngôi đền mà cho đến nay, tất cả vẫn còn là bí ẩn.
Cồn Kiếm (Thanh kiếm thần của Trần Hưng Đạo)
Khi đến với đền thờ Trần Hưng Đạo, bạn sẽ bắt gặp trước tiên là con sông Thương với một đường đất bồi nổi giữa lòng sông. Tương truyền, khi đánh thắng giặc Mông Nguyên, trong một buổi chiều du ngoạn thuyền trên dòng sông, Trần Quốc Tuấn đã rút gươm mà rằng: “Thanh gươm này đã gắn bó với ta gần cả cuộc đời. Trong suốt cuộc chinh chiến đã dính máu bao giặc Thát, nó đã từng được bôi phân gà sáp với vôi tôi và bồ hóng để chém đầu tên giặc Phạm Nhan nhơ bẩn. Nay ta muốn nhờ nước dòng sông Lục Đầu để gột rửa hết vết nhơ trên đó”. Nói rồi Người thả thanh kiếm xuống dòng sông. Truyền rằng, sau này chỗ thả thanh gươm nổi lên một bãi bồi dài hình cây kiếm. Dân gian gọi đó là “Thanh kiếm thần của Trần Hưng Đạo”Về đám tang và “ngôi mộ” của Trần Hưng Đạo
Không giống với nhiều vị vua chúa, tướng lĩnh khác, Trần Hưng Đạo không có một lăng mộ cụ thể nào. Lý do khá đặc biệt. Trong những năm tháng lâm bệnh nặng cuối đời, tương truyền Trần Hưng Đạo có căn dặn con cháu rằng “Ta chết tất phải hỏa táng, cho xương vào những ống tròn chôn ở vườn An Lạc rồi trồng cây lại như cũ để người đời sau không biết đâu mà tìm”. Năm Hưng Long thứ 8 (1300), ngày 20 tháng 8 Trần Hưng Đạo qua đợi tại nhà riêng ở Vạn Kiếp. Theo giai thoại, trong đám tang của ông có trên bảy mươi quan tài cùng xuất phát, cùng giờ, đưa tang cùng một lúc và rải khắp vùng Vạn Kiếp. Vợ con ông cũng vì thế mà chia ra khắp các đám tang. Hiện nay cách khu đền chính khoảng 100m về phía nam vẫn có một quả đồi nhỏ, dân gian gọi đó là Viên Lăng (Lăng mộ của Trần Hưng Đạo)Tục xin ấn đền Trần
Ở đền Kiếp Bạc hiện giờ còn 4 ấn bằng đồng. Tương truyền đều có từ khi mới lập đền. Ấn thứ nhất hình vuông, kích thước 10*10 cm, có khắc 7 chữ : Trần triều Hưng Đạo Vương chi ấn (ấn của Hưng Đạo Vương triều Trần). Ấn này vua Trần ban cho Hưng Đạo Vương quyền được thay vua phong tướng. Ấn thứ hai hình vuông, kích thước 5.5 cm*5.5 cm khắc 4 chữ: Quốc Pháp Đại Vương. Ấn thứ ba cũng hình vuông kích thước 4.3 cm * 4.3 cm khắc 4 chữ: Vạn Dược Linh Phù. Ấn thứ tư hình chữ nhật, kích thước 5,2 cm * 7,8 cm khắc 6 chữ: Phi Thiên Thần Kiếm Linh Phù. Nhiều người tin rằng Ấn đền Kiếp Bạc là “bùa” may mắn giúp họ thăng quan tiến chức, cầu tự, cầu tài, trừ tà ma và giúp gia chủ gặp nhiều may mắn. Ngày nay, lễ hội khai Ấn đã được phục dựng và tổ chức thành công theo đúng nghi lễ cổ xưa. Trên mỗi lá ấn được đóng đủ 4 dấu ấn. Hàng năm, lễ khai Ấn đền Kiếp Bạc được diễn ra trang trọng vào đúng 23 giờ ngày 16-8 theo Âm lịch.Sự tích Trần Hưng Đạo chém đầu tướng giặc Phạm Nhan
Chuyện kể về cái chết của tướng giặc Nguyên Mông Phạm Nhan luôn là một trong những câu chuyện mang nhiều màu sắc li kỳ nhất trong những câu chuyện về đền Kiếp Bạc. Chuyện kể rằng Phạm Nhan mang hai dòng máu: Mẹ người Việt, bố là người Quảng Đông (Trung Quốc). Nhờ có trong tay một chút y thuật, Phạm Nhan được tiến cử vào cung chữa bệnh và được cử làm người chỉ đường cho quân Nguyên xâm lược Đại Việt. Tương truyền Phạm Nhan là người có phép thần thông: chặt đầu này có thể biến hóa ra đầu khác, người có thể biến to nhỏ nên không đao kiếm nào chém được, không dây nào trói được hắn. Do đó, khi hắn bị quân ta bắt, Đại Vương đã phải ra lệnh trói hắn bằng chỉ ngũ sắc, chém đầu hắn bằng lưỡi kiếm có bôi phân gà sáp cùng bồ hóng. Trần Quốc Tuấn còn ra lệnh chém hắn thành ba khúc, khúc đầu ném xuống sông, khúc thứ hai ở đất liền, khúc thứ ba đưa lên rừng. Tương truyền, khúc ném xuống sông hóa thành đỉa, lên rừng thành vắt, đất liền biến thành muỗi tiếp tục đi hút máu con người.Giếng Mắt Rồng
Đi qua cổng Tam quan của Đền, ta bắt gặp ngay Giếng Mắt Rồng được kè đá khang trang, chắc chắn. Câu chuyện về cái giếng này có cùng nguồn gốc với giai thoại về vị trí của ngôi đền.
Chuyện kể rằng, vào đúng ngày Trần Quốc Tuấn ra thăm khu bãi sậy, khi Người vẫn còn mải ngắm thế sông thế núi thì Yết Kiêu đã nhanh chóng phát hiện một khe nước. Khe nước chảy ngay cạnh chỗ mẹ con chú chó nằm, có dòng nước rất trong. Yết Kiêu múc nước uống thử thì thấy nước ngọt, mát. Người đèm hái lá cuốn đem nước về cho Đại Vương uống thử. Trần Hưng Đạo uống xong cảm thấy rất sảng khoái, minh mẫn. Nhìn kỹ, nó là dòng nước chảy ra từ mạch nước ngầm của núi Rồng, đúng vị trí của Mắt Rồng. Từ đó. Trần Quốc Tuấn ra lệnh khơi sâu, kè đá, lấy nước giếng phục vụ binh sĩ trong chiến đấu.
Ngày nay, trải qua nhiều cuộc binh chiến loạn lạc, Giếng Mắt Rồng sau nhiều lần bị vùi lấp rồi trùng tu, nay được xây dựng cố định, làm nguồn nước chủ yếu phục vụ hoạt động đền. Du khách thập phương đến đây dâng hương có tục thả tiền lẻ xuống mặt giếng, với mong muốn sẽ luôn gặp điều may mắn, suôn sẻ trong cuộc sống.
Sự tích Dược Sơn ( núi thuốc)
Tương truyền vào một buổi chiều khi đang đi thăm thú khu vực Vạn Kiếp, Trần Hưng Đạo có gặp một ông lão râu tóc bạc phơ, mắt sáng như sao, đang đi nhanh thoắt về phía núi Nam Tào. Lấy làm lạ, Trần Quốc Tuấn đến hỏi chuyện. Ông lão tự xưng là danh y trong vùng, vào rừng hái thuốc về chữa bệnh. Hưng Đạo Vương lấy làm mừng lắm vì từ lâu vốn định tìm một vườn thuốc gần đây để phục vụ binh sĩ. Người hỏi ông lão cặn kẽ về đặc tính, công dụng, chất đất địa phương. Ông lão thưa rằng: “Dược liệu ở núi Rồng có nhiều, đất núi Nam Tào rất hợp với trồng cây thuốc”. Nói rồi xin tặng Đại Vương một bọc thuốc quý rồi rút lui. Từ khi đó, Trần Hưng Đạo lệnh tướng sĩ thu thập, nghiên cứu trồng cây thuốc ở núi Nam Tào và đặt tên núi là Dược Sơn. Người đời sau có câu thơ:Dược lĩnh hoa thơm cỏ lạ nhường
Biết chăng, chăng biết thuốc thần tiên
Là để ca ngợi công lao của Trần Hưng Đạo trong việc xây dựng Dược Sơn này